Trong những năm gần đây, sự năng động của ngân hàng trung ương ngày càng được các nhà đầu tư săn đón. Nói một cách tổng quát, NHTW là người xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, đồng thời cũng là công cụ để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế, điểm khác biệt giữa NHTW và các ngân hàng khác là hoạt động kinh doanh của NHTW là không vì lợi nhuận mà vì mục tiêu thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của quốc gia. Kể từ năm 2008, không gian phát triển kinh tế toàn cầu dần đạt đến đỉnh cao, tốc độ phát triển cũng giảm trở lại trong một thời gian. Xu hướng kinh tế không rõ ràng và áp lực kinh tế trong nước làm cho các hành động của ngân hàng trung ương ngày càng thường xuyên hơn và tác động đến tỷ giá hối đoái cũng ngày càng tăng. Thời điểm công bố quyết định lãi suất của ngân hàng trung ương có tác động đến toàn bộ thị trường ngoại hối vượt xa sự biến động do công bố một số dữ liệu kinh tế.
Tại sao Ngân hàng Trung ương can thiệp?
Ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm phát hành nội tệ, thiết lập lượng tiền cung ứng, nắm giữ và gửi dự trữ ngoại hối, duy trì giá trị đối nội và đối ngoại của đồng nội tệ. NHTW là một trong những chủ thể tham gia chính trên thị trường ngoại hối, nhưng mục đích chính khi tham gia thị trường ngoại hối là duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái và điều chỉnh hợp lý lượng dự trữ quốc tế ở một mức độ nhất định hoặc có giới hạn đến một phạm vi mức độ nhất định. Trong hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi, ngân hàng trung ương thường buộc phải mua hoặc bán ngoại hối để can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm duy trì trật tự thị trường. Khi một tỷ giá hối đoái nào đó bị định giá quá cao hoặc bị định giá thấp trong một thời gian dài và có tác động tiêu cực đến nền kinh tế, ngân hàng trung ương sẽ can thiệp vào tỷ giá hối đoái bằng cách mua hoặc bán đồng tiền đó. Ngân hàng trung ương đóng một vai trò rất quan trọng trong các giao dịch ngoại hối, đặc biệt đối với những ngân hàng trung ương có đủ dự trữ ngoại hối tự do, khả năng can thiệp của họ là rất đáng kể. NHTW can thiệp vào thị trường ngoại hối chủ yếu theo hai phương thức: can thiệp gián tiếp và can thiệp trực tiếp.
Có 3 hình thức can thiệp gián tiếp: 1. Nghiệp vụ thị trường mở: hoạt động điều chỉnh lượng tiền cung ứng bằng cách mua hoặc bán chứng khoán 2. Điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu: các ngân hàng thương mại xin vay từ NHTW để trực tiếp thay đổi đồng tiền 3. Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ: Dự trữ là tiền gửi của tổ chức tài chính tại ngân hàng trung ương, và việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền gửi của tổ chức tài chính. Can thiệp gián tiếp là tác động trực tiếp đến lượng cung tiền trên thị trường thông qua việc điều chỉnh một số chính sách và tiêu chuẩn tài chính, sau đó tác động đến tỷ giá hối đoái của tiền tệ. Sự can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung ương có nghĩa là ngân hàng trung ương, với tư cách là cơ quan chính của thị trường ngoại hối, tham gia vào việc mua bán ngoại hối, do đó ảnh hưởng đến xu hướng của tỷ giá hối đoái.
Trong hầu hết các trường hợp, sự can thiệp của ngân hàng trung ương chỉ giới hạn trong phạm vi ổn định tỷ giá hối đoái. Mục đích của sự can thiệp của ngân hàng trung ương có thể là để đảo ngược hướng của tỷ giá hối đoái, hoặc đơn giản là để kiểm tra hướng của thị trường, hoặc nó có thể cố gắng thao túng sự tăng giá và giảm giá của tỷ giá hối đoái. Cả ý định và hành động của các ngân hàng trung ương nên được coi là yếu tố thị trường quan trọng trong thị trường ngoại hối.
Mục tiêu can thiệp của ngân hàng trung ương vào thị trường ngoại hối
Nói chung, khi giá trên thị trường ngoại hối lớn bất thường hoặc dao động mạnh theo cùng một hướng trong nhiều ngày liên tiếp, ngân hàng trung ương thường can thiệp trực tiếp vào thị trường và thực hiện các giao dịch ngoại hối thông qua các ngân hàng thương mại nhằm giảm bớt rủi ro. biến động dữ dội trên thị trường ngoại hối. Có nhiều giải thích lý thuyết về lý do tại sao ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối, và có khoảng ba lý do được hầu hết mọi người chấp nhận.
Thứ nhất, tỷ giá hối đoái biến động bất thường thường liên quan đến dòng vốn quốc tế sẽ dẫn đến những biến động không cần thiết đối với sản xuất công nghiệp và phát triển kinh tế vĩ mô, do đó tỷ giá hối đoái ổn định sẽ giúp ổn định nền kinh tế và giá cả quốc gia. Giờ đây, dòng vốn quốc tế xuyên biên giới không chỉ lớn về quy mô mà còn thông qua nhiều kênh và những trở ngại nhân tạo gặp phải là rất nhỏ. Các nước công nghiệp bắt đầu nới lỏng các quy định tài chính vào cuối những năm 1970, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho dòng vốn quốc tế. Trong điều kiện của hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi, kết quả trực tiếp nhất của dòng vốn quốc tế quy mô lớn là sự biến động giá cả trên thị trường ngoại hối. Nếu một lượng lớn vốn chảy vào Đức, tỷ giá hối đoái của Deutsche Mark trên thị trường ngoại hối sẽ tăng lên, và nếu một lượng lớn vốn chảy ra khỏi Hoa Kỳ, tỷ giá hối đoái của đồng đô la Mỹ trên thị trường ngoại hối thị trường chắc chắn sẽ giảm. Mặt khác, nếu mọi người kỳ vọng tỷ giá hối đoái của đồng tiền của một quốc gia nào đó sẽ tăng lên, vốn chắc chắn sẽ chảy vào quốc gia đó.
Mối tương quan giữa dòng vốn và những thay đổi trên thị trường ngoại hối có tác động quan trọng đến phân bổ ngành kinh tế quốc gia và giá cả của một quốc gia. Ví dụ, khi một lượng lớn vốn chảy ra khỏi một quốc gia, khiến tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ giảm, hoặc khi người dân kỳ vọng tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ giảm, dẫn đến dòng vốn chảy ra, sự phân bổ công nghiệp và giá cả của đất nước này chắc chắn sẽ xuất hiện có lợi cho những người có liên kết với ngoại thương. Từ góc độ ngoại thương, các ngành công nghiệp của bất kỳ quốc gia nào cũng có thể được chia thành các ngành có thể tiến hành ngoại thương và các ngành không thể tiến hành ngoại thương. Cái trước, chẳng hạn như sản xuất, tạo ra các sản phẩm có thể xuất khẩu và nhập khẩu, trong khi cái sau, chẳng hạn như một số ngành dịch vụ, phải được sản xuất và tiêu thụ tại địa phương. Khi dòng vốn chảy ra và đồng tiền mất giá, giá cả của các ngành công nghiệp có thể thực hiện ngoại thương sẽ tăng lên, nếu tiền lương trong ngành này không tăng cùng tốc độ, thì việc tăng sản lượng trong ngành này và xuất khẩu sẽ có lãi. do đó sẽ Tuy nhiên, xét từ cơ cấu công nghiệp trong nước, vốn sẽ chảy từ các ngành phi thương mại sang các ngành thương mại. Nếu đây là một hiện tượng dài hạn, nền kinh tế quốc gia của đất nước có thể mất cân đối. Do đó, các nước công nghiệp và các ngân hàng trung ương không muốn thấy tỷ giá hối đoái của đồng tiền của họ lệch khỏi những gì họ nghĩ là giá cân bằng trong một thời gian dài. Đây là một trong những lý do khiến các ngân hàng trung ương can thiệp trực tiếp vào thị trường khi đồng tiền của họ yếu đi hoặc quá mạnh.
Một tác động quan trọng khác của mối tương quan giữa dòng vốn và diễn biến thị trường ngoại hối đối với nền kinh tế quốc dân là dòng vốn ra lớn sẽ làm tăng chi phí hình thành vốn sản xuất trong nước, trong khi dòng vốn lớn vào có thể gây áp lực lạm phát không cần thiết và ảnh hưởng đến vốn dài hạn. đầu tư. . Hoa Kỳ đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách tài khóa mở rộng từ đầu những năm 1980, dẫn đến một lượng lớn dòng vốn chảy vào và tỷ giá hối đoái của đồng đô la Mỹ đã dần tăng lên.Trong năm 1981 và 1982, Ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Cục Dự trữ Liên bang) hoàn toàn thông qua giấy thông hành trên thị trường ngoại hối. Để ngăn chặn dòng vốn chảy ra, các nước Tây Âu thường buộc phải can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối khi tỷ giá hối đoái của các đồng tiền châu Âu tiếp tục giảm và đã nhiều lần yêu cầu Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ hỗ trợ can thiệp.
Thứ hai, sự can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung ương vào thị trường ngoại hối là vì nhu cầu của các chính sách nội thương và ngoại thương. Giá đồng tiền của một quốc gia thấp hơn trên thị trường ngoại hối chắc chắn sẽ có lợi cho xuất khẩu của quốc gia đó. Vấn đề xuất khẩu đã là một vấn đề chính trị ở nhiều nước công nghiệp, liên quan đến nhiều khía cạnh như mức độ việc làm của nhiều ngành xuất khẩu, tâm lý bảo hộ thương mại và thái độ của cử tri đối với chính phủ. Không ngân hàng trung ương nào muốn thấy thặng dư thương mại nước ngoài của mình bị các quốc gia khác chiếm giữ vì tỷ giá hối đoái của đồng tiền của chính họ quá thấp. Do đó, ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối với mục đích này chủ yếu được thể hiện ở hai khía cạnh.
Để bảo vệ xuất khẩu, ngân hàng trung ương sẽ can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối khi đồng nội tệ tiếp tục mạnh lên. Điều này càng hợp lý hơn đối với các quốc gia có xuất khẩu chiếm tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế quốc gia của họ. Trước tháng 4 năm 1992, đồng đô la Úc luôn tăng giá và mức tăng không đổi. Tuy nhiên, khi tỷ giá hối đoái của đồng đô la Úc so với đô la Mỹ tăng lên 0,77 đô la Mỹ vào ngày 30 tháng 3, Ngân hàng Trung ương Úc đã ngay lập tức bán đồng đô la Úc để mua đô la Mỹ trên thị trường. Một ví dụ khác là Đức là nước xuất khẩu sản xuất lớn trên thế giới, sau khi thực hiện hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi vào những năm 1970, tỷ giá hối đoái của đồng mác đã tăng lên cùng với sức mạnh của nền kinh tế Đức. nhãn hiệu trong một phạm vi với các loại tiền tệ của các quốc gia thành viên khác của Cộng đồng Châu Âu.
Tầm quan trọng của các vấn đề thương mại có thể được nhìn thấy đầy đủ từ việc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản thường xuyên can thiệp vào thị trường ngoại hối. Kể từ những năm 1980, thặng dư thương mại của Nhật Bản với Hoa Kỳ hàng năm vẫn ở mức cao ngất ngưởng, năm 1991 là 50 tỷ đô la Mỹ, đã trở thành vấn đề chính trị trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản. Năm 1992 là năm bầu cử ở Hoa Kỳ, tâm lý bảo hộ thương mại chống Nhật Bản ở Hoa Kỳ rất mạnh, các đại biểu Quốc hội vẫn chỉ trích Nhật Bản đóng cửa thị trường Hoa Kỳ tại Quốc hội. Để xoa dịu tâm lý bài Nhật ở Mỹ, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản thường xuyên phát biểu kêu gọi tăng giá đồng yên, thỉnh thoảng kiểm tra tình hình tỷ giá hối đoái để tỏ rõ thái độ. Ngày 17 tháng 1 năm 1992, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản bất ngờ bán đồng yên để mua đô la trên thị trường khi xu hướng đồng đô la mạnh lên được hình thành, khiến tỷ giá hối đoái của đồng đô la so với đồng yên tăng từ 128,35 yên lên 124,05 yên ngay lập tức. Vào thời điểm đó, lãi suất của Nhật Bản tương đối cao và chính phủ Nhật Bản không có ý định giảm lãi suất. Về lý do can thiệp, ngân hàng trung ương chỉ nói rằng họ muốn đồng yên mạnh lên. Trong ba tuần tiếp theo, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần can thiệp vào thị trường ngoại hối theo cách tương tự, bán đồng yên để mua đô la. không hiệu quả lắm.
Xét từ góc độ lịch sử phát triển của thị trường ngoại hối quốc tế, dùng đồng nội tệ mất giá để mở rộng xuất khẩu là chính sách thường được nhiều quốc gia áp dụng trong thời kỳ đầu, được gọi là “chính sách láng giềng ăn mày”. đang suy thoái nên thường dẫn đến chiến tranh thương mại giữa hai nước. Do các rào cản thương mại phi thuế quan có nhiều tên gọi khác nhau, chính sách can thiệp giả tạo vào thị trường ngoại hối này hiếm khi được áp dụng và rõ ràng là nó sẽ thu hút sự chỉ trích từ các quốc gia khác.
Thứ ba, can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại hối không nằm ngoài mục tiêu kiềm chế lạm phát trong nước. Mô hình kinh tế vĩ mô chứng minh rằng trong trường hợp hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi, nếu tỷ giá hối đoái của một quốc gia thấp hơn giá cân bằng trong một thời gian dài, nó sẽ kích thích xuất khẩu trong một thời gian nhất định, dẫn đến thặng dư ngoại thương , nhưng cuối cùng nó sẽ khiến giá cả trong nước tăng và tiền lương tăng, tạo áp lực lạm phát. Khi lạm phát đã ở mức cao, chu kỳ tiền lương - giá cả này có thể khiến mọi người kỳ vọng lạm phát cao trong tương lai, gây khó khăn cho các cơ quan quản lý tiền tệ trong việc thực hiện chính sách chống lạm phát. Hơn nữa, ở một số nước công nghiệp, cử tri có xu hướng cho rằng áp lực lạm phát do phá giá đồng tiền của họ là một triệu chứng của sự quản lý kinh tế vĩ mô yếu kém của các cơ quan chính phủ. Vì vậy, sau khi thực hiện hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi, nhiều nước công nghiệp coi tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước mình là một nội dung được giám sát chặt chẽ khi kiểm soát lạm phát.
Sự biến động của đồng bảng Anh từ những năm 1980 cho thấy rõ mối quan hệ giữa mất giá tiền tệ và lạm phát. Vào những năm 1970, hầu hết các nước công nghiệp đều rơi vào tình trạng lạm phát hai con số, đồng bảng Anh cũng bị diệt vong. Trong suốt những năm 1980, các ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ và các nước Tây Âu hoạt động hiệu quả đáng kể, trong khi Vương quốc Anh kém hiệu quả hơn. Sau khi thành lập Hệ thống tiền tệ châu Âu vào năm 1979, Vương quốc Anh luôn miễn cưỡng tham gia do các yếu tố chính trị và các yếu tố khác trong chính quyền của bà Thatcher, và đã nỗ lực rất nhiều để kiềm chế lạm phát trong nước. Năm 1990, sau hơn 10 năm, nước Anh cuối cùng đã tuyên bố gia nhập Hệ thống tiền tệ châu Âu sau khi John Major nhậm chức thủ tướng. Lý do chính là để duy trì tỷ giá hối đoái của đồng bảng Anh ở mức tương đối cao thông qua Hệ thống tiền tệ châu Âu, để lạm phát của Anh có thể được kiểm soát hơn nữa. Nhưng thời gian tốt đẹp không kéo dài lâu, vào năm 1992, hệ thống tiền tệ châu Âu gặp khủng hoảng, thị trường ngoại hối bán phá giá đồng bảng Anh, lira, v.v., cuối cùng dẫn đến sự mất giá chính thức của đồng lira của Ý. Cũng dựa trên những cân nhắc về chống lạm phát, chính phủ Anh đã chi hơn 6 tỷ USD can thiệp thị trường, và ngân hàng trung ương Đức cũng chi hơn 12 tỷ USD can thiệp thị trường ngoại hối nhằm duy trì giá trị của đồng bảng Anh và đồng lira. . Khi đồng bảng tiếp tục giảm mạnh và kêu gọi giảm giá đồng bảng trong hệ thống tiền tệ châu Âu lên cao, Vương quốc Anh đã tuyên bố rút khỏi hệ thống tiền tệ châu Âu mà không chính thức phá giá đồng bảng.
Lịch sử can thiệp của ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương đã tham gia ý chí của chính phủ để can thiệp vào biến động tỷ giá hối đoái hàng ngày trên thị trường ngoại hối bắt đầu từ những năm 1930. Sau khi Vương quốc Anh từ bỏ bản vị vàng năm 1931, tỷ giá hối đoái của đồng bảng biến động dữ dội, đến tháng 4 năm 1932, tỷ giá hối đoái của đồng bảng Anh đã giảm 30% so với khi thực hiện bản vị vàng. Để hạn chế tác động của các dòng vốn đầu cơ ngắn hạn đối với tỷ giá hối đoái của đồng bảng Anh, Vương quốc Anh đã tạo ra "tài khoản cân bằng tỷ giá hối đoái", là một phần của kho bạc và sở hữu tất cả dự trữ vàng và ngoại hối được sử dụng bởi chính phủ. Vương quốc Anh.Được quản lý bởi ngân hàng. Phương thức hoạt động của nó là: khi vàng hoặc ngoại hối chảy vào từ nước ngoài và khi tỷ giá hối đoái của đồng bảng Anh tạo ra áp lực tăng giá, Bộ Tài chính bán chứng khoán của quỹ và sử dụng thu nhập bằng đồng bảng Anh để mua vàng hoặc ngoại hối ; Khi có áp lực giảm tỷ giá hối đoái, Bộ Tài chính sử dụng vàng hoặc ngoại hối trong quỹ để mua bảng Anh và mua chứng khoán từ thị trường. Thông qua các hoạt động giao dịch chứng khoán của Bộ Tài chính, không chỉ có thể ổn định tỷ giá hối đoái của đồng bảng Anh mà còn có thể ngăn chặn những thay đổi quá mức về điều kiện tiền tệ trong nước do dòng vàng và ngoại hối ra vào.
Vương quốc Anh đã cố gắng giữ tỷ giá hối đoái của bảng Anh trong một phạm vi hẹp bằng cách sử dụng Quỹ Bình ổn Trao đổi. Kể từ đó, hệ thống này đã được quảng bá ở nhiều quốc gia khác nhau. Hoa Kỳ, Bỉ, Canada, Hà Lan, Thụy Sĩ, Pháp, v.v. đã triển khai hệ thống này. Hoa Kỳ đã tạo ra "Quỹ bình ổn hối đoái" vào tháng 4 năm 1934, được Bộ Tài chính thành lập từ khoản thu nhập 2,8 tỷ đô la Mỹ thu được từ việc tăng giá vàng chính thức vào thời điểm đó. Trong số 2 tỷ đô la trong quỹ, có 1,8 tỷ đô la bằng vàng và 200 triệu đô la ở dạng thanh khoản. Phương thức hoạt động của nó là: khi vàng nước ngoài chảy vào Hoa Kỳ với quy mô lớn, Bộ Tài chính phát hành chứng khoán vàng cho Ngân hàng Dự trữ Liên bang để lấy quỹ đô la Mỹ và sử dụng quỹ đô la Mỹ này để mua vàng từ thị trường. Ở quỹ bình ổn ngoại hối, do thanh khoản quá ít, trong khi vàng chảy vào, dự trữ của ngân hàng cũng sẽ phình ra và trở thành cơ sở để mở rộng tín dụng. Do đó, quỹ bình ổn ngoại hối ở Hoa Kỳ thực tế chỉ đóng vai trò là kênh truyền tải vàng chứ không thể làm đệm cho tác động của dòng vốn chảy vào và chảy ra của vàng đối với nền tài chính trong nước.
Hệ thống quỹ bình ổn ngoại hối của Anh và Mỹ được thực hiện độc lập trong vài năm đầu tiên. Vào tháng 9 năm 1936, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Pháp đã ký một thỏa thuận tiền tệ, và các quỹ ổn định ngoại hối của mỗi quốc gia đã thiết lập liên lạc và bắt đầu lịch sử hợp tác tiền tệ.
Trong những ngày đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một trong những mục đích can thiệp của chính phủ vào thị trường ngoại hối là khôi phục khả năng chuyển đổi tự do của tiền tệ. Theo hệ thống Bretton Woods, khi các quốc gia thực hiện hệ thống tỷ giá hối đoái cố định gắn liền với đồng đô la Mỹ, chính sách tỷ giá hối đoái ổn định trở thành trụ cột trong chính sách tỷ giá hối đoái của mỗi quốc gia. Can thiệp vào thị trường ngoại hối là nghĩa vụ của các chính phủ và là một biện pháp quan trọng để ổn định tỷ giá hối đoái. Sau sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái cố định vào năm 1973, hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi thường được các nước công nghiệp phát triển áp dụng. can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối, số lượng và quy mô can thiệp ngày càng tăng. Chỉ riêng từ tháng 7 năm 1973 đến tháng 1 năm 1975, tổng số tiền can thiệp của các nước phương Tây đã lên tới 58 tỷ đô la Mỹ, đến nửa cuối thập niên 1970, hình thức can thiệp này thể hiện rõ nét hơn. Điều này chủ yếu là do dưới hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi, tỷ giá hối đoái thường trải qua những biến động quy mô lớn và rất khó để ngăn chặn những biến động đó chỉ bằng sức mạnh tự phát của thị trường ngoại hối. Trong trường hợp này, chính thức can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối thuận tiện, linh hoạt và hiệu quả hơn so với các phương thức điều hành tỷ giá hối đoái khác.
Để ngăn chặn sự biến động quá mức của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến sự phát triển thuận lợi của nền kinh tế của các quốc gia và nền kinh tế quốc tế, đồng thời, để ngăn chặn các chính phủ kiểm soát tỷ giá hối đoái một cách sai trái nhằm bảo vệ lợi ích của chính họ, Hội nghị Quốc tế Quỹ tiền tệ và các tổ chức khác đã xây dựng một loạt các quy định về sự can thiệp của chính phủ trong hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi: ①Sự can thiệp của các nước thành viên không thể cản trở việc điều chỉnh hiệu quả cán cân thanh toán và không thể mang lại lợi ích cạnh tranh không công bằng cho các nước thành viên khác; ②Khi có là những biến động ngắn hạn và mang tính hủy diệt trong tỷ giá hối đoái của đồng tiền của họ, các quốc gia thành viên phải Đối phó với tình trạng hỗn loạn; ③ các quốc gia thành viên nên xem xét lợi ích của các quốc gia thành viên khác khi thực hiện các chính sách can thiệp.
Sau những năm 1980, có một sự thay đổi đáng chú ý trong sự can thiệp của chính phủ, đó là sau hơn 10 năm thả nổi hệ thống tỷ giá hối đoái, các quốc gia cuối cùng đã nhận ra tầm quan trọng của việc cùng nhau can thiệp vào thị trường ngoại hối và ổn định tỷ giá hối đoái. Tại hội nghị kinh tế thượng đỉnh Versailles của bảy quốc gia năm 1982, "Tuyên bố đảm bảo về tiền tệ quốc tế" đã được thông qua và một tổ chức do các quan chức của Bộ Tài chính Pháp đứng đầu đã được thành lập để nghiên cứu kế hoạch hành động chung của bảy quốc gia về ngoại hối. can thiệp thị trường và các vấn đề liên quan. Vào ngày 28 tháng 4 năm 1983, cơ quan này đã công bố một báo cáo nghiên cứu về việc can thiệp vào tỷ giá hối đoái, nhắc lại rằng "sự can thiệp phối hợp của hai hoặc nhiều quốc gia sẽ hiệu quả hơn sự can thiệp của một quốc gia." Trong Hội nghị thượng đỉnh kinh tế G7 ở Luân Đôn năm 1984 và Hội nghị thượng đỉnh kinh tế Tokyo năm 1986, vấn đề can thiệp chung và phối hợp vào thị trường ngoại hối một lần nữa được nhấn mạnh. Trong lịch sử, can thiệp chung điển hình nhất là can thiệp tỷ giá hối đoái của đồng đô la Mỹ vào năm 1985. Vào tháng 9 năm 1985, tại cuộc họp của năm bộ trưởng tài chính được tổ chức tại "Khách sạn Plaza" ở New York, tất cả các nước đều đồng ý rằng tỷ giá hối đoái của đồng đô la Mỹ được định giá quá cao, quyết định cùng nhau can thiệp vào thị trường ngoại hối và đàm phán một Mục tiêu can thiệp chung rất cụ thể: ① giảm tỷ giá hối đoái của đồng đô la Mỹ xuống 10% ~12%; ②Thời gian can thiệp là 6 tuần, tổng quy mô can thiệp là 18 tỷ đô la Mỹ và quy mô can thiệp tối đa trong một ngày là 300- 400 triệu đô la Mỹ; ③Các quỹ can thiệp được chia sẻ bởi các quốc gia khác nhau: 30% cho Hoa Kỳ và Nhật Bản, 25% cho Cộng hòa Liên bang Đức và 25% cho Cộng hòa Liên bang Đức, 10% cho Pháp và 5% cho Cộng hòa Liên bang Đức. Vương quốc Anh. Kể từ đó, năm quốc gia đã bán gần 4 tỷ đô la trên thị trường quốc tế; Ngân hàng Nhật Bản đã bán 1,5 tỷ đô la trong một ngày. Hành động kết hợp này đã làm giảm 8% đồng đô la chỉ trong vài ngày.
Tổng hợp các mô hình can thiệp ngoại hối của các quốc gia khác nhau, có thể rút ra các kết luận sau: Thứ nhất, không có một mô hình can thiệp ngoại hối thống nhất nào trên thế giới. Dường như không có khuôn mẫu rõ ràng về việc các quốc gia áp dụng mô hình can thiệp nào. Trong số 10 quốc gia và khu vực ở Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Vương quốc Anh, Úc, Nga, Canada, Hồng Kông và Khu vực đồng tiền chung châu Âu, 2 quốc gia hoặc khu vực có can thiệp dựa trên tài chính và 3 quốc gia hoặc khu vực can thiệp chung giữa ngân hàng trung ương và tài khóa Có 5 quốc gia hoặc khu vực mà ngân hàng trung ương chủ trì can thiệp. Đối với các nước lớn, Anh và Nhật Bản giống nhau ở chỗ ngành tài khóa đi đầu trong việc can thiệp vào thị trường ngoại hối, còn NHTW đóng vai trò hỗ trợ tư vấn và thực hiện. Tại Hoa Kỳ, mặc dù Cục Dự trữ Liên bang không chịu trách nhiệm về chính sách ngoại hối và không quản lý dự trữ ngoại hối, nhưng sự can thiệp của Bộ Tài chính vào thị trường ngoại hối cần phải được Cục Dự trữ Liên bang thực hiện sau khi tham khảo ý kiến của nó, và Cục Dự trữ Liên bang cũng chịu một nửa quỹ can thiệp ngoại hối. Trong số các nền kinh tế lớn hơn, các ngân hàng trung ương ở Canada và Úc chịu trách nhiệm độc lập về việc can thiệp thị trường ngoại hối. Trong số các nền kinh tế mới nổi, ngân hàng trung ương của Nga cũng là tổ chức chịu trách nhiệm chính về các quyết định can thiệp thị trường ngoại hối. Thứ hai là ngân hàng trung ương ít nhất đảm nhận vai trò của nhà điều hành và sự khác biệt giữa các quốc gia được phản ánh trong vai trò của khu vực tài chính. Ngân hàng trung ương của tất cả các nước đều đảm nhận vai trò là người thừa hành can thiệp thị trường ngoại hối và đóng vai trò không thể thay thế. Ngay cả ở những quốc gia mà ngân hàng trung ương không quản lý dự trữ ngoại hối, ngân hàng trung ương là người thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối. Sự khác biệt trong các mô hình can thiệp ngoại hối được phản ánh trong vai trò và chức năng đảm nhận bởi các cơ quan tài chính của các quốc gia khác nhau. Thứ ba, có sự khác biệt về tần suất và tính minh bạch của can thiệp thị trường ngoại hối, có liên quan đến hệ thống ngoại hối ở một mức độ nhất định. Các quốc gia thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi độc lập nhìn chung có tần suất can thiệp ngoại hối ít hơn và tính minh bạch cao hơn; các quốc gia thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý thường có tần suất can thiệp ngoại hối nhiều hơn và tính minh bạch thấp hơn.
Tuy nhiên, loại hành động này của ngân hàng trung ương không phải lúc nào cũng đạt được hiệu quả mong muốn – đôi khi thị trường mạnh hơn và có nhiều tiếng nói hơn ngân hàng trung ương. Ngay cả khi ngân hàng trung ương có dự trữ vốn khổng lồ, một số siêu đầu cơ vẫn có thể lợi dụng tình hình để đối đầu trực diện với ngân hàng trung ương và giành được chiến thắng lớn. Việc George Soros phong tỏa Ngân hàng Anh năm 1992 là một ví dụ.
Quá trình hội nhập tiền tệ châu Âu trong những năm 1990 rất ấn tượng. Đầu năm 1992, 12 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu đã ký "Hiệp ước Maastricht" thể hiện khuôn khổ mới của hệ thống tỷ giá hối đoái châu Âu. Một đồng tiền được phép thả nổi trong một biên độ tỷ giá hối đoái nhất định. Một khi tỷ giá hối đoái vượt quá mức quy định biên độ thả nổi, ngân hàng trung ương của mỗi quốc gia thành viên có trách nhiệm can thiệp vào thị trường bằng cách mua và bán đồng tiền của nước mình để ổn định tỷ giá hối đoái của quốc gia trong biên độ quy định; Trong biên độ tỷ giá hối đoái thả nổi quy định, các đồng tiền của các quốc gia thành viên dựa trên nhãn hiệu Deutsche và có thể thả nổi so với tiền tệ của các quốc gia thành viên khác.
Gia nhập hệ thống tỷ giá hối đoái châu Âu và thúc đẩy vị thế chính trị cũng như quyền lực của mình trong liên minh kinh tế mới gần như là kế hoạch ra quyết định duy nhất của chính phủ Anh vào thời điểm đó. Tuy nhiên, Soros xác định rằng nước Anh đang suy thoái không thể duy trì tỷ giá hối đoái 1 bảng Anh ăn 2,95 mark, vì vậy ông đã dùng 10 tỷ đô la Mỹ để đặt cược bán khống bảng Anh để mua đồng mark. ông đã mua 500 triệu đô la Mỹ cổ phiếu của Anh và bán một lượng lớn cổ phiếu của Đức. Động thái này của ông đã thu hút thêm các quỹ đầu tư chênh lệch giá dài hạn và các tập đoàn đa quốc gia, họ như một bầy sói đói sẵn sàng chờ con mồi “xông vào”.
Vào giữa tháng 9 năm 1992, cuộc khủng hoảng cuối cùng đã nổ ra. Khi chính phủ Anh cuối cùng không thể chịu được áp lực của suy thoái kinh tế và yêu cầu Bundesbank Đức hạ lãi suất, Bundesbank Đức đã kiên quyết từ chối yêu cầu của Anh. Trong tuyệt vọng, Ngân hàng Trung ương Anh đã tăng lãi suất hai lần một ngày, đưa lãi suất lên 15%, nhưng vẫn có rất ít tác dụng, và tỷ giá hối đoái của đồng bảng Anh vẫn không thể đứng vững trên mức giới hạn tối thiểu là 2,778. Trong cuộc chiến tiền tệ bảo vệ đồng bảng này, chính phủ Anh đã huy động tới 26,9 tỷ USD dự trữ ngoại hối, nhưng cuối cùng thất bại thảm hại, chính phủ Anh phải tuyên bố rút khỏi hệ thống tỷ giá hối đoái châu Âu. Và Soros đã trở thành người chiến thắng lớn nhất trong cuộc chiến đồng bảng này. Được biết, trong cuộc thi này, Soros đã chi 10 tỷ đô la Mỹ một mình và kiếm được khoản lợi nhuận khổng lồ 1 tỷ đô la Mỹ từ giao dịch bán khống đồng bảng Anh vào ngày 15 tháng 9. Tạp chí The Economist gọi Soros là "kẻ bại trận". Nước Anh".
Một nhóm quỹ đủ lớn cho phép thị trường ngoại hối hình thành một hệ sinh thái hoàn chỉnh. Sự lên xuống của tỷ giá hối đoái mang theo dòng tiền trong nhóm, ngụ ý sự đến và đi của vòng tròn. Vốn liếng đủ lớn thì ngành có sâu đến đâu cũng chỉ là bọt nước, nước trong thì không có cá, nhưng nó vẫn tuân theo quy luật phát triển kinh tế;